Nét đặc biệt ở Việt Nam lần này là đổi
mới GD-ĐT một cách căn bản và toàn diện, nghĩa là tận gốc và trên tất
cả các mặt. Điều này phản ánh là GD-ĐT VN đang ở trong một tình thế rất
đặc biệt và xã hội đã ý thức được rằng GD-ĐT VN không thể cứ tiếp tục
theo lối cũ lâu nay nữa, rằng phải tạo ra bước đột phá mới trong cách
làm giáo dục.
Giáo dục Việt Nam muốn đổi mới căn bản
và toàn diện phải cấp bách tìm câu trả lời cho nhiều vấn đề nóng bỏng
như: Tại sao việc học trong nhà trường đang trở nên cơn ác mộng với
không ít học sinh, khiến học sinh sợ học; tại sao giáo viên khó tận tâm
với nghề; tại sao không thu hút được người giỏi vào ngành sư phạm; tại
sao cha mẹ học sinh rất băn khoăn về tương lai học hành và nên người của
con em mình và sẵn sàng đưa con đi “tị nạn giáo dục” khi có điều kiện;
tại sao đạo đức xã hội ngày một xuống cấp, tội phạm càng ngày càng trẻ
hóa, mức độ tội ác ngày càng trầm trọng hơn; làm sao nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam để có thể nhanh chóng chuyển từ mô hình phát
triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu…
![]() |
Thu nhập của giáo viên vẫn còn thấp so với mặt bằng chung. |
Để giải đáp tất cả những câu hỏi lớn
đó, phải có cách tiếp cận đa chiều và đa tầng, tư duy một cách hệ thống,
xem xét cả nguyên nhân bên trong và quan trọng hơn nữa là bên ngoài
lĩnh vực giáo dục rồi mới đi tìm giải pháp. Có vậy mới đổi mới căn bản
và toàn diện GD-ĐT được, mới khiến giáo dục đào tạo hồi sinh mạnh mẽ
được.
Tuy nhiên, xét riêng lĩnh vực giáo dục
thì cũng đã có thể tìm được phần nào manh mối để đổi mới GD-ĐT. Lâu
nay, chúng ta vẫn giương cao khẩu hiệu “phát triển GD-ĐT là quốc sách
hàng đầu” nhưng tiếc thay bao năm rồi, đó cũng vẫn chỉ là khẩu hiệu,
không hơn không kém. Xin đừng dựa vào các con số mà ông Vụ trưởng Bộ kế
hoạch tài chính của Bộ GD-ĐT đưa ra là “trong vòng 12 năm qua (từ 1998 -
2010), Nhà nước tăng dần đầu tư GD-ĐT từ mức hơn 13% lên 20% tổng chi
ngân sách nhà nước (và) với tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục như trên,
Việt Nam thuộc nhóm nước có tỷ lệ chi cho giáo dục cao nhất thế
giới…”(1) để cho rằng GD-ĐT đã được đặt làm quốc sách hàng đầu rồi.
Trước hội nghị Trung ương 6, vấn đề đổi mới giáo dục lại một lần nữa trở thành "điểm nóng". Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng cho sự phát triển của đất nước… tuy nhiên sau ba lần hô hào đổi mới thì cho tới nay nền giáo dục nước nhà vẫn còn bộc lộ quá nhiều bất cập. Đó là lý do vì sao Báo Giáo dục Việt Nam tổ chức chuyên đề “Thất vọng và kỳ vọng vào giáo dục Việt Nam”.
Mời các chuyên gia, độc giả quan tâm tới vấn đề đổi mới giáo dục Việt Nam gửi bài về toàn soạn theo địa chỉ: toasoan@giaoduc.net.vn
Theo báo cáo của Sở LĐTB-XH Hà Nội,
trong năm 2011, các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đạt mức lương bình
quân là 3,98 triệu đồng mỗi tháng; khối doanh nghiệp hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp - là 4,65 triệu đồng mỗi tháng, đơn vị đạt mức cao nhất là
7,7 triệu đồng, nơi có lương bình quân thấp nhất là 2 triệu đồng mỗi
tháng, người có mức lương cao nhất đạt gần 45 triệu đồng(2).
Trong khi đó, theo số liệu được công
bố vào tháng 7-2012 của Đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước do Quỹ
Hòa bình và phát triển VN thực hiện, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị
Bình làm chủ nhiệm, thì “thu nhập bình quân từ lương và các khoản phụ
cấp theo lương của giáo viên Tiểu học, THCS, THPT trong khoảng từ 3 đến
3,5 triệu đồng/tháng. Khoảng 50% giáo viên các cấp hưởng dưới mức bình
quân này”.
Mới đây, Ủy ban Tài chánh và ngân sách
của Quốc hội sau khi nghiên cứu đề nghị của Chính phủ, nghe nhiều cuộc
tranh luận trong Thường vụ Quốc hội cuối cùng đã nhất trí đề nghị phương
án nâng mức khởi điểm chịu thuế thu nhâp cá nhân từ 4 triệu đồng lên 9
triệu đồng, mức giảm trừ gia cảnh từ 1,6 triệu đồng lên 3,6 triệu đồng.
Đây là mức có thể chấp nhận được trong tình hình hiện nay. Phương án mới
đề nghị này càng làm nổi rõ một nghịch lý bi hài là hóa ra rất đông
giáo viên hiện đang lãnh mức lương - kể cả phụ cấp nghề nghiệp - dưới
mức… người sống phụ thuộc.
Nói cách khác giáo viên đã thành chủ
gia đình rồi mà đi dạy có thu nhập còn thấp hơn số tiền 3,6 triệu
đồng/tháng mà một người sống phụ thuộc cần có! Nếu người phụ thuộc cần
đến 3,6 triệu đồng/tháng thì một giáo viên đi dạy học, là lao động chính
trong gia đình cần thu nhập bao nhiêu để gia đình mình đủ sống một cách
tằn tiện nhất? Cần ít nhất 3 lần mức 3,6 triệu đồng vì giáo viên phải
nuôi chí ít 1 con và phụng dưỡng cha hay mẹ già, nghĩa là cần khoảng 11
triệu đồng/tháng!
Thử hỏi hiện có bao nhiêu phần trăm
giáo viên từ mầm non đến Đại học ký nhận lương và phụ cấp tại trường
mình đang công tác được từ 11 triệu đồng trở lên khi lương cấp Bộ trưởng
cũng chỉ có hệ số 10, nghĩa là 10,3 triệu đồng/tháng (chưa kể phụ cấp
và thu nhập khác)? Vậy thì thử hỏi làm sao số đông giáo viên có thể an
tâm cống hiến cho nghề, không ngừng nâng cao trình độ, thử hỏi làm sao
ngành sư phạm có thể thu hút người tài vào được, làm sao người tài trong
ngành giáo dục lại không sẵn sàng rời bỏ nhà trường khi có cơ hội việc
làm có thu nhập cao hơn, làm sao có thể chống học thêm dạy thêm, chống
lạm thu có hiệu quả được?
Để giải quyết được bài toán hóc búa
này, phải đổi mới căn bản và toàn diện lối tư duy làm giáo dục, làm kinh
tế giáo dục, thoát khỏi vòng trói của lối nghĩ rằng nâng lương cho hơn 1
triệu giáo viên là nâng lương cho 80% đội ngũ công chức hành chính sự
nghiệp, là việc làm vượt quá khả năng của ngân sách nhà nước để rồi chịu
bó tay mà gác lại vô thời hạn ngày giáo viên sống được bằng lương.
Tuy nhiên, làm cho giáo viên sống được
bằng lương cũng chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ để nền giáo dục Việt
Nam hồi sinh mạnh mẽ. Còn nhiều việc quan trọng khác, trong đó có việc
phải xem xét lại triết lý giáo dục, mà trước hết là xem xét sứ mạng và
tính chất của GD-ĐT Việt Nam. Sứ mạng lâu nay được xác định cho GD-ĐT là
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, tính chất của
nó được xác định là “nền GD XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,
hiện đại, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng”(3).
Xét về mặt học thuật từ góc độ triết
học về con người lẫn từ góc độ giáo dục học, xét cả về mặt thực tiễn
suốt mấy chục năm qua, có nhiều nội dung trong sứ mạng, tính chất của
giáo dục được xác định như trên là đang có vấn đề, có nội dung phải thay
đổi hay bãi bỏ, có nội dung phải được nhận thức lại cho đúng, cho đầy
đủ hơn.
Về sứ mạng của giáo dục, cần hiểu dân
trí một cách đầy đủ, sâu sắc hơn. Không thể cứ dựa vào tỷ lệ biết đọc
viết, số năm học trung bình của dân cư, số sinh viên trên 10.000 dân,
hay tỷ lệ khu phố văn hóa được công nhận… mà xét dân trí cao hay thấp.
Dân trí còn là và chủ yếu là thái độ, kỹ năng và thói quen con người ứng
xử với nhau trong xã hội và gia đình, cư xử với môi trường và với chính
mình. Ứng xử một cách có văn hóa, một cách văn minh thì thể hiện dân
trí cao hơn, còn ứng xử vô văn hóa, theo luật rừng thì thể hiện dân trí
thấp hơn. Xét theo tiêu chí này thì một người dân thường ít chữ vẫn có
thể có dân trí cao hơn một quan chức hay ông tiến sĩ.
Có nhận thức như vậy thì giáo viên mới
giác ngộ được mục đích thực sự của hoạt động dạy học của mình mà cụ thể
hóa trong từng tiết lên lớp, trong từng tiếng nói, cách xử sự trong và
ngoài nhà trường, mới xác định được hiệu quả thật của những nỗ lực âm
thầm và bền bỉ của mình. Khi đó nhà nước và xã hội mới thấy được hiệu
quả thực sự, hiệu quả sâu xa của giáo dục đào tạo, khi đó đất nước mới
được hưởng quả ngọt do giáo dục đem lại.
Về tính chất của giáo dục, cần bổ sung
và đặc biệt coi trọng tính Khai sáng. Nhiệm vụ chính trị đầu tiên, căn
bản và muôn đời của giáo dục là tạo điều kiện cơ bản ban đầu để con
người biết cách sống hạnh phúc, đúng với phẩm giá con người trong suốt
cuộc đời mình. Khai sáng chính là thuộc tính của một nền giáo dục thật
sự vì con người, vì sự phát triển bền vững của con người, là mục đích
tối thượng của giáo dục. Khai sáng con người để người học nhận biết đâu
là phải trái, biết cách tự khai phá và phát huy tiềm năng của chính
mình, tự định hướng lấy cuộc đời mình mà sống hạnh phúc, không phải dựa
dẫm vào lòng từ thiện của ai đó, không làm nô lệ cho ý muốn của người
khác.
Khai sáng là “cú hích ban đầu” để tạo
cho người học có quán tính học tập mà ham học và học suốt đời. Do vậy
tính chất Khai sáng - chứ không phải một tính chất nào khác - phải là
tính chất đầu tiên của một nền giáo dục chân chính, vì con người. Khai
sáng phải được viết trang trọng và đầu tiên, ghi bằng chữ vàng trong
tính chất của nền GD-ĐT Việt Nam.
Giáo dục khai sáng đối lập hoàn toàn
với giáo dục nhồi sọ, bắt con người học “chữ” đến mụ mị, bắt con người
thừa nhận chân lý một cách mù quáng, tôn thờ nó thành bất biến, khiến
con người thành một robot tinh xảo được lập trình chi tiết. Một nền giáo
dục khai sáng sẽ chú trọng dạy cách học và cách tự học, sẽ “nâng cao và
hướng dẫn việc tự học” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở (4) mà
không chạy theo số lượng năm học hay nội dung dăm chữ ghi trên mảnh
bằng. Một nền giáo dục khai sáng sẽ trọng việc dạy cách làm người hơn
nhồi nhét kiến thức để thi đậu.
Một nền giáo dục khai sáng sẽ phải
loại bỏ những nội dung học một thời rất hữu ích nay đã trở thành vô bổ,
lạc hậu, phản khoa học, sẽ yêu cầu kịp thời bổ sung những nội dung thiết
thực, cơ bản, khoa học, hiện đại để người học có thể tiến cùng thời
đại.
Công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện
GD-ĐT phải bắt đầu bằng việc đổi mới căn bản và toàn diện tư duy giáo
dục để nâng mình lên một tầm nhìn cao hơn. Điều quan trọng hơn là đổi
mới không chỉ trong giáo dục đào tạo mà thôi và đổi mới trong lĩnh vực
này phải đồng bộ với những đổi mới trong các lĩnh vực khác. Nhưng phải
làm, nhất thiết phải làm và không được dừng lại nửa vời vì đây là một
cuộc đổi mới vì tương lai của dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét